Những nguyên nhân gây ra các loại rối loạn tic (tic disorder)

Những nguyên nhân gây ra các loại rối loạn tic (tic disorder)

HYPPO Clinic

Cùng tìm hiểu về các loại rối loạn tic, triệu chứng, phân loại, nguyên nhân, chẩn đoán và điều trị.

Các chuyển động của chi và các bộ phận khác của cơ thể được gọi là các loại tic vận động (motor tics). Các âm thanh lặp đi lặp lại một cách không tự chủ, như phát ra tiếng rên, hít mũi hoặc hắng giọng, được gọi là các loại tic âm thanh (vocal tics).

Các rối loạn tic (tic disorders) thường khởi phát ở trẻ em, thông thường lần đầu tiên biểu hiện ước tính vào khoảng 5 tuổi. Nhìn chung, bệnh phổ biến hơn ở nam giới so với nữ giới.

Nhiều trường hợp các cơn tic là tạm thời và sẽ tự khỏi trong vòng một năm. Tuy nhiên, một số người gặp phải cơn tic có thể phát triển thành một rối loạn mãn tính

Phân loại các rối loạn Tic

Rối loạn tic thường được phân loại thành ba loại: rối loạn tic vận động, rối loạn tic âm thanh, hoặc hội chứng Tourette, là sự kết hợp của cả hai loại trên.

Các loại tic vận động và âm thanh có thể là nhất thời hoặc dai dẳng (mãn tính). Hội chứng Tourette được coi là một rối loạn tic mãn tính. 

Rối loạn tic nhất thời

Theo Học viện Nhi khoa Hoa Kỳ (American Academy of Child and Adolescent Psychiatry), rối loạn tic nhất thời ảnh hưởng đến khoảng 10% trẻ em trong những năm đầu đi học. Trẻ em mắc rối loạn tic nhất thời sẽ xuất hiện một hoặc nhiều dạng rối loạn tic kéo dài ít nhất 1 tháng và thường sẽ không kéo dài hơn 12 tháng. Các triệu chứng này thường bắt đầu trước tuổi 18.

Trong rối loạn tic nhất thời, các rối loạn tic vận động thường gặp hơn so với tic âm thanh. Các rối loạn tic có thể thay đổi về loại và mức độ nghiêm trọng theo thời gian.

Các nghiên cứu đã chỉ ra mối liên hệ giữa rối loạn tic với các vấn đề về học tập. Trẻ em trẻ mắc chứng khó học (learning disabilities) thường có tỷ lệ mắc rối loạn tic cao hơn. Ngoài ra, trẻ em trong phổ tự kỷ cũng có nguy cơ cao mắc rối loạn tic.

Rối loạn tic vận động hay âm thanh dai dẳng (mãn tính) 

Các tic xuất hiện trước 18 tuổi và kéo dài ít nhất 1 năm có thể được phân loại là rối loạn tic mãn tính. Những tic này có thể là vận động hoặc âm thanh, nhưng không đồng thời cả hai. 

Rối loạn tic mãn tính ít phổ biến hơn so với rối loạn tic nhất thời, chỉ ảnh hưởng đến dưới 1% trẻ em. 

Nếu trẻ bắt đầu mắc rối loạn tic vận động hoặc âm thanh mãn tính ở độ tuổi nhỏ, trẻ sẽ có khả năng hồi phục cao hơn, các rối loạn tic thường biến mất trong vòng 6 năm. Những người tiếp tục có triệu chứng sau 18 tuổi ít có khả năng khỏi bệnh hơn.

Hội chứng Tourette 

Hội chứng Tourette là một rối loạn thần kinh phức tạp. Bệnh lý này là sự kết hợp của cả 2 loại rối loạn tic, tic âm thanh và tic vận động. Đây là rối loạn tic nghiêm trọng nhất và ít phổ biến nhất.

Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh cho biết số lượng chính xác những người mắc hội chứng Tourette chưa được ghi nhận. Nghiên cứu của CDC cho thấy một nửa số trẻ em mắc bệnh không được chẩn đoán. Hiện tại, chỉ 0,3% trẻ em từ 6 đến 17 tuổi tại Hoa Kỳ đã được chẩn đoán mắc hội chứng Tourette. 

Triệu chứng của hội chứng Tourette thay đổi về mức độ nghiêm trọng theo thời gian. Đối với nhiều người, các triệu chứng sẽ cải thiện theo tuổi tác.

Hội chứng Tourette thường đi kèm với các tình trạng khác, như rối loạn tăng động giảm chú ý (ADHD) và rối loạn ám ảnh cưỡng chế (OCD)

Triệu chứng 

Triệu chứng đặc trưng của rối loạn tic là sự xuất hiện của một hoặc nhiều tic. Các  rối loạn tic này có thể được phân loại như sau:

  • Tic vận động: Bao gồm các cử động đầu, vai, nháy mắt, giật mình, đập tay, búng ngón tay hoặc chạm vào người hoặc vật khác. Tic vận động thường xuất hiện trước tic âm thanh, mặc dù không phải lúc nào cũng vậy.
  • Tic âm thanh: Là những âm thanh như ho, khịt mũi, rên rỉ hoặc hành động lặp lại liên tục các từ hoặc cụm từ.

Các tic cũng có thể được chia thành các loại sau:

  • Tic đơn giản: Đây là những tic đột ngột và thoáng qua, chuyển động chỉ liên quan đến một vài nhóm cơ nhất định. Ví dụ nhăn mũi, đảo mắt hoặc khịt mũi.
  • Tic phức tạp: Bao gồm các chuyển động phối hợp sử dụng nhiều nhóm cơ. Ví dụ như nhảy hoặc bước đi theo một cách nhất định, cử chỉ kì lạ hoặc lặp lại các từ hoặc cụm từ.

Các tic thường đi kèm với một cảm giác khó chịu, như ngứa hoặc tê. Mặc dù có thể kiềm chế việc thực hiện các chuyển động do rối loạn tic, tuy nhiên việc này đòi hỏi rất nhiều nỗ lực, luyện tập vậy nên thường gây ra căng thẳng, bức bối. Việc thực hiện các chuyển động tic mang lại cảm giác giải thoát khỏi những cảm giác bức bối này.

Các triệu chứng của rối loạn tic có thể:

  • Tăng nặng khi có cảm xúc lo lắng, phấn khích, tức giận hoặc mệt mỏi
  • Tăng nặng trong thời kỳ đau bệnh
  • Tăng nặng khi nhiệt độ quá cao hoặc quá thấp
  • Xảy ra trong khi ngủ
  • Thay đổi theo thời gian
  • Thay đổi về loại và mức độ nghiêm trọng
  • Cải thiện theo thời gian

Nguyên nhân và các yếu tố nguy cơ 

Nguyên nhân chính xác của các rối loạn tic chưa được biết rõ. Trong nghiên cứu về hội chứng Tourette, các nghiên cứu gần đây đã xác định một số đột biến gen cụ thể có thể có vai trò. Các chất dẫn truyền hóa học trong não bộ cũng có vẻ là yếu tố quan trọng, đặc biệt là các hoạt chất như glutamat, serotonin và dopamin.

Các cơn rối loạn tic do nguyên nhân thực thể bao gồm:

  • Chấn thương đầu
  • Đột quỵ (tai biến mạch máu não)
  • Nhiễm trùng
  • Nhiễm độc
  • Phẫu thuật 
  • Các chấn thương khác

Ngoài ra, các cơn tic cũng có thể liên quan đến những rối loạn nghiêm trọng hơn, như bệnh Huntington hoặc bệnh Creutzfeldt-Jakob.

Một số yếu tố nguy cơ gây rối loạn tic bao gồm

  • Di truyền: Rối loạn tic có thể di truyền trong gia đình, vì thế ở một số gia đình, chúng xuất hiện trong một mô hình trội với mức độ các triệu chứng khác nhau.
  • Giới tính: Nam giới có xu hướng mắc rối loạn tic hơn nữ giới.

Bệnh đồng mắc 

Trẻ mắc hội chứng Tourette có thể kèm theo một hoặc nhiều vấn đề sau đây:

  • Rối loạn Lo âu
  • Rối loạn Tăng động giảm chú ý (ADHD) 
  • Rối loạn Trầm cảm
  • Rối loạn phổ tự kỷ (ASD)
  • Chứng khó học (learning difficulties)
  • Rối loạn Ám ảnh cưỡng chế (OCD)
  • Chậm nói (speech and language difficulties)
  • Khó ngủ (sleep difficulties) 

Các bệnh lý này thường do ảnh hưởng từ rối loạn tic đối với lòng tự trọng và hình ảnh bản thân.

Chẩn đoán 

Rối loạn tic được chẩn đoán dựa trên dấu hiệu và triệu chứng. Trẻ phải dưới 18 tuổi khi bắt đầu có triệu chứng để được chẩn đoán rối loạn tic. Ngoài ra, các triệu chứng phải không được gây ra bởi các tình trạng y tế hoặc chất.

Tiêu chí để chẩn đoán rối loạn tic nhất thời bao gồm sự xuất hiện của một hoặc nhiều tic, xảy ra không quá 12 tháng liên tiếp.

Người bệnh được chẩn đoán rối loạn tic vận động hoặc âm thanh mãn tính nếu một hoặc nhiều tic xuất hiện gần như hàng ngày trong 12 tháng hoặc hơn. Người mắc rối loạn tic mãn tính không phải hội chứng Tourette sẽ trải qua tic vận động hoặc tic âm thanh, nhưng không phải cả hai.

Hội chứng Tourette được chẩn đoán nếu có sự xuất hiện của cả tic vận động và tic âm thanh, xảy ra gần như hàng ngày trong 12 tháng hoặc hơn. Hầu hết trẻ em được chẩn đoán khi dưới 11 tuổi. Các vấn đề về hành vi khác thường cũng xuất hiện.

Để loại trừ các nguyên nhân khác của tic, bác sĩ có thể đề nghị:

  • Xét nghiệm máu
  • Chụp MRI hoặc các chẩn đoán hình ảnh khác

Điều trị 

Tâm lý Trị liệu

Một số liệu pháp có sẵn để giúp mọi người kiểm soát các tic và giảm sự xuất hiện của chúng, bao gồm:

  • Phơi nhiễm và ngăn chặn phản ứng (ERP): Một loại liệu pháp hành vi nhận thức giúp mọi người làm quen với những thôi thúc khó chịu trước khi xảy ra rối loạn tic, với mục đích ngăn chặn các hành vi rối loạn tic.
  • Liệu pháp đảo ngược thói quen: Một phương pháp điều trị luyện cho người mắc rối loạn tic dùng thói quen sử dụng chuyển động khác để cạnh tranh với các chuyển động rối loạn tic, do đó chuyển động tic không thể xảy ra.

Thuốc 

Thuốc có thể được sử dụng độc lập hoặc kết hợp với liệu pháp tâm lý nêu trên. Thuốc thường dùng để giảm tần suất chuyển động tic nhưng không loại bỏ hoàn toàn triệu chứng. 

Các loại thuốc có sẵn bao gồm: 

  • Thuốc chống co giật
  • Tiêm Botox
  • Thuốc giãn cơ
  • Thuốc tương tác với dopamine. 

Các loại thuốc khác cũng có thể giúp cải thiện các triệu chứng liên quan đến rối loạn tic. Ví dụ, thuốc chống trầm cảm có thể được kê đơn cho các triệu chứng lo âu và rối loạn ám ảnh cưỡng chế.